P H Ạ M C A O H O À N G
VÀ
“MÂY KHÓI QUÊ NHÀ”
M ặ c L â m
Biên
tập viên RFA
Tập thơ Mây Khói Quê Nhà dày 128
trang gồm 35 bài thơ và 5 ca khúc do chính Phạm Cao Hoàng sáng
tác. Chúng tôi thật bất ngờ với tập thơ này
v́ sách in đẹp, cẩn trọng và yêu quư từng con chữ
b́nh thường trong cả tập thơ. Sự
trang trọng này như khuyến khích người chưa biết
Phạm Cao Hoàng có cảm giác thân mật hơn với ông bởi
những ǵ mà họ thấy trước khi bước chân
vào cơi thơ của Phạm Cao Hoàng.
Với
rất ít chi tiết mà tác giả thổ lộ, chúng tôi xin
ghi lại và gửi cho quư vị sau đây:
“Tôi sang Mỹ năm 1999 cho đến
mười năm sau tôi mới in tập thơ đầu
tiên ở Mỹ là tập “Mây Khói Quê Nhà” do nhà xuất bản
của anh Trần Hoài Thư ấn hành. Trước năm
1975 việc sáng tác ở miền
Tập thơ “Mây
Khói Quê Nhà” có lẽ nói lên được nhiều điều
thay cho tác giả. Những bài thơ có dáng dấp của một
thời xa xưa, đầy ắp những h́nh ảnh của
những thập niên 60-70 sẽ làm mềm ḷng không ít người
từng sống và chia sẻ những ngôn từ đặc
trưng của một thời đại vừa chớm
chạm vào văn hóa phương Tây, đặc biệt sự
xuất hiện của quân đội đồng minh tại
miền Nam tạo nên phong cách sống bất cần đời
của một lớp người trẻ tuổi, dang dở
v́ chiến tranh.
Tuy không quá chán chường và tích cực
trước chủ nghĩa hiện sinh như một số
thanh niên sinh viên khác cùng thời nhưng Phạm Cao Hoàng không
tránh khỏi tâm trạng chung của thanh niên cùng thế hệ:
ngẩn ngơ trước đổi thay quá lớn của
xă hội và từng lớp thanh niên ra đi không có dịp
quay về.
Bài thơ mang tên “Hành Phương
Đông” của Phạm Cao Hoàng có lẽ là phác thảo chung cho một quăng thời gian khá dài khi nhà
thơ lớn lên cùng với ḍng chảy lịch sử
đau thương của dân tộc. Thể
loại “hành” làm bài thơ toát lên nét ngạo mạn, bất
cần đời của người làm thơ.
Trước cảnh lưu lạc, cô đơn trong xă hội,
hay nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ thi sĩ chợt
nhiên đứng thẳng lưng mà hát, mà say. Trong một giới
hạn nào đó có thể nói thể loại “hành” thích hợp
nhất cho những tâm hồn thất chí, tài cao sức lớn
nhưng bị kềm hăm bởi nhân sinh, số phận.
Thể loại
hành được người yêu thơ đón nhận nồng
nhiệt sau khi bài “Hành Phương
Ta
đi, nhưng biết về đâu chứ?
Đă dấy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ,
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Người ơi! Hề người ơi!
Người sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi.
Năm 1974 Tô Thùy Yên viết “Trường
Sa Hành” trong một tâm trạng khác, vừa
cô đơn trước vũ trụ vừa đồng cảm
với thân phận của những người lính đồn
trú một nơi không có dấu vết con người. Nhà
thơ nói với đồng đội mà chừng như
nói với chính ḿnh:
Chú em hăy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét trong ḷng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Trước Trường Sa Hành 3 năm, Phạm Cao Hoàng sáng tác Hành
Phương Đông vào năm 1971. Không khí bài thơ không
có cái sửng sốt trước trời đất như
của Trường Sa Hành, cũng không có cái ngạo nghễ
ngồi giữa chợ ôm bầu mà uống như Nguyễn
Bính nhưng trong Hành Phương Đông Phạm Cao
Hoàng có những câu không kém ấn tượng khi bước
vào thể loại này:
bạn ta áo ngươi
sao bạc thếch
chiều nay c̣n một ngươi với ta
ngươi nhớ ǵ dưới trời mây trắng
ta nhớ màu hoàng hôn năm xưa
ngươi phong trần ta
cũng giang hồ
vó ngựa qua nhịp khua lóc cóc
buổi ra đi đâu mơ ngày về
nhưng chiều nay ngươi ơi ta muốn khóc
Phạm Cao Hoàng muốn
khóc, chàng không có khả năng cầm giọt lệ như
Nguyễn Bính nhưng thi sĩ thật thà cảm tạ trời
đất đă cho chàng sống sót. Sống
sót để tiếp tục trôi nổi giữa nhân sinh
chưa hẳn là không đau đớn, tái tê.
ngươi ba mươi ta
cũng ba mươi
kể cũng đă mười năm rồi xa lắc
th́ vui đi cho hết một đời
rằng ta kẻ trời cho sống sót
Phạm Cao Hoàng
nh́n mây như Tô Thùy Yên nh́n biển. Hai
h́nh ảnh đều bao la, lồng lộng trời đất.
Cánh mây của Phạm nhuộm thắm màu tê tái trong khi màu
mây của Tô lại đỏ thảm
thê.
Mây
trắng quá và chiều tê tái lắm
biết về đâu giữa lúc hoàng hôn phai
ta cùng ngươi những bóng đời lếch thếch
chiều tan mau rồi vẫn bóng đêm dài
sống nửa đời
chẳng có một quê nhà
buổi lận đận thân gửi nhờ đất
khách
chẳng lẽ ta ôm ḷng mà chờ
chờ một thuở huy hoàng trên mặt đất
“Hành Phương Đông” của Phạm Cao
Hoàng rất gần với đời thường và do
đó những h́nh ảnh thật nhỏ cũng được
ông khai thác. Có những câu người đọc
nhận ra chính ḿnh qua tính cách tri kỷ trong câu thơ hiện
rơ bởi danh xưng “ngươi” và “ta”.
Trong
mắt ngươi có bóng đời tan vỡ
Có mùa đông quê cũ rét mưa phùn
Có đầu thu rụng đầy bông
khế
Có bông cúc vàng nở rộ chớm sang xuân
Có
chuyến tàu đi trong chiều sương lạnh
nhả khói buồn ta với hoàng hôn
có chiếc khăn tay vẫy ngang mắt
lệ
bánh sắt lăn như nghiến nát cả ḷng
bạn ta bên kia sông là núi
núi của ngàn năm đá vọng bóng người đi
núi tiếp sông và sông tiếp biển
sông tiễn người qua bến phân ly
sông ngậm ngùi vỗ sóng thiên thu
mùa băo tới gầm lên rồi bi thiết
gờn gợn trên sóng bạc những căm thù
bởi máu đă nhuộm hồng sông nước
Lúc
tuổi trẻ đă tan rồi chí khí
sống nửa đời ta chẳng thấy quê
hương
nh́n lên cao mây c̣n bay lớp lớp
ta cùng ngươi quay với
bóng tang thương
“Thật ra tôi không
có ư định thay đổi ǵ về cái kỹ thuật
thơ của ḿnh bởi v́ hồi nào tới giờ đă
quen như vậy rồi. Hai nữa thường th́ những
bài thơ hay người ta t́m đọc không phải v́
h́nh thức mà nội dung là chính. Thí dụ như bây giờ
đọc một bài thơ tự do hay, th́ v́ bài đó hay
chứ không phải v́ thể thơ mà nó tạo ra
được bài thơ hay. Hồi nào giờ
ḿnh quen nó như vậy rồi cho nên cũng không có ư thay
đổi ǵ. Dù sao đi nữa th́ một số
các nhà thơ nỗ lực cách tân về mặt h́nh thức
của thơ th́ tôi nghĩ cũng có cái đúng, bởi v́
thể thơ có vần dù sao nó cũng giới hạn, làm
cho người viết không thể bộc lộ một
cách đầy đủ những ǵ mà họ muốn viết
bởi do vần cái điệu nó không chế.Tuy nhiên thật
ra trong sáng tác, cái h́nh thức tôi nghĩ nó đa dạng, mỗi
tác giả người ta có sở trường riêng và sự
đa dạng đó nó tạo nên phong phú.”
Với nhà thơ Phạm Cao Hoàng, tuy
thể loại không phải là điều ông quan tâm
nhưng thơ tự do của ông cho thấy ông rất tinh
tường khi gửi gấm những ư tưởng buông
thả, ngưng tụ mọi giác quan vào thể loại
thơ tuy dễ mà rất khó này. Qua bài “Bên Ḍng
Sông Tuổi Thơ” Phạm Cao Hoàng không những hồi
tưởng về cái đă qua mà cảm giác hiện tại
mới là tác nhân chính khiến ông bồi hồi lặng lẽ.
Con sông vẫn là nơi mà thi sĩ nhiều thời đại
đổ nỗi buồn vào đó với nhận thức
rất rơ rằng sự liên hệ mật thiết của
quá khứ có khả năng biến ḍng sông thành một tấm
lụa, căng mỏng thời gian cho thi sĩ nh́n vào đấy
t́m chút hạnh phúc hiếm hoi của tung tăng niên thiếu.
chiều
nay ngồi lại bên ḍng sông này
tôi muốn quên đi tất cả những phiền lụy
để thấy nước kia vẫn c̣n xanh
và những đám lục b́nh
vẫn trôi trong chiều lăng đăng
tôi im lặng để chiêm ngưỡng
tiếng xào xạt tái tê của lau lách
hay tiếng sóng vỗ nhẹ bên mạn thuyền câu
đang lặng lờ trên sông nước
tôi muốn trút đi những oan khiên của một đời
người
để nghe sóng réo gọi kiếp đời tôi
hăy quên đi hăy quên đi
hỡi ta của vinh danh phù phiếm
hỡi ta của cơm áo bon chen
tôi đang nghe sông hát
nhạc tiếc nuối một thời xa xưa
hăy thả trôi đi hăy thả trôi đi
những tham vọng của tuổi trẻ
những lừa đảo của cuộc đời
những ngụy tín và phản bội
hăy rửa sạch đi
bụi của ngày tháng
và rửa sạch đi
cả một quăng đời tôi
hỡi ḍng sông đă tắm
gội tuổi thơ tôi
chiều nay tôi muốn hát vang trên bến nước
khúc hát của kẻ trở về
giữa thiên nhiên mù mịt bóng mây
Tôi
chợt thấy ḷng vô cùng nhẹ nhàng
Tôi muốn chạy tung tăng
Như thuở mới lên mười
đuổi bắt những cánh bướm
nhưng khi nh́n lại dấu chân ḿnh trên cát
mới biết rằng
tuổi thơ tôi đă xa
tôi muốn trầm ḿnh trong ḍng nước
như ngày nào vứt sách vở trên bờ ao
nằm nghe nước reo vui
nhưng chiều nay sông ơi
khi nh́n bóng ḿnh cúi xuống quá khứ
mới biết rằng đời sống đă tàn phai
đành ngậm ngùi
phơi xác ḿnh
trên băi vắng
Càng về chiều,
con người có khuynh hướng ưu tư nhiều
hơn về cuộc đời. Thi
sĩ, người có nỗi buồn lớn lại bất
an hơn ai hết. Nếu người b́nh thường
sống đơn giản với cuộc đời
như sự lững lờ của mây của gió, trôi đi
bất cần mọi điều xảy ra với cuộc
sống th́ thi sĩ lại lo lắng, hồi hộp
trước bất cứ thay đổi nào của thiên
nhiên, tạo vật. Chiều xuống vàng một
luống tranh cũng làm chàng buồn. Trưa
hè vắng tiếng ve kêu cũng khiến chàng nhấp nhổm
tự hỏi mùa hạ sao lại chóng qua….những tự hỏi
đầy ắp ấy khiến thơ bật ra, và nỗi
buồn cũng không thể nằm yên.
Em
có tóc bay giữa trời tháng chạp
Nên ta buồn mỗi lúc mưa tuôn
Cũng như buổi mưa về lướt thướt
Ta nghe hồn rớt giữa vô tăm
Và
chút lúm đồng tiền trên má
Xui đời ta điên đảo mấy năm
Em có chân chim dẫm trên cỏ ướt
Nên hồn ta vỡ mỗi mùa đông
Em
đă xa như chim biền biệt
Như âm vang mưa trải đến vô bờ
Ta ôm trái sầu ta vừa chín
đập tan tành trên những lối mưa xưa
“Theo chủ quan của
tôi th́ số người đọc thơ ở hải ngoại
không có nhiều. Thơ là một cái ǵ
đó nó kén người đọc nhưng so với trước
đây th́ có thể nói trước năm 75 th́ thơ
được nhiều sinh viên, học sinh, trí thức và
những người yêu thi ca người ta đọc khá
nhiều. Sau này th́ giới đọc
thơ không nhiều như hồi trước. Có lẽ
do sự thay đổi cuộc sống, tốc độ
của cuộc sống rồi những khó khăn trong
đời sống khi người ta sống ở nước
ngoài phải giải quyết vấn đề mưu sinh
cho nên phần dành cho thi ca không c̣n nữa.”
Chúng ta vừa nghe
những lời tâm sự của nhà thơ Phạm Cao Hoàng
nhận xét về người đọc thơ hôm nay, trong
cũng như ngoài nước. Thế nhưng vẫn c̣n rất
nhiều thi sĩ tiếp tục làm thơ, tiếp tục
căng hồn ra trong những sáng tinh sương, hoặc
để ngợi ca thiên nhiên, trời đất hoặc
than thở cho nỗi bất hạnh của ḿnh, của
người.
Dù cách nào th́ thơ cũng là ân sủng của thượng đế ban
cho thi sĩ. Chàng khó thể đánh đổi
thi ca để nhận lấy những phù phiếm mà cuộc
đời thường chiêu dụ. Thi sĩ không chạy
đua với đời, chàng chạy đua với quả
tim ḿnh để dỗ dành nó, vuốt ve
nó sau những lần rạn vỡ.
MẶC LÂM
2011
tài liệu: PCH gởi